1. Đôi nét về sử liệu học
Sử
liệu học là ngành có mầm mống từ lâu đời song phải đến thế kỉ XIX khi chủ nghĩa
thực chứng lên ngôi thì đây mới thực sự trở thành một ngành khoa học. Cho tới
hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật thì sử liệu học cũng đạt
được những thành tựu quan trọng và trở nên thiết yếu đối với hoạt động nghiên
cứu lịch sử.
Hiện
vẫn tồn tại rất nhiều định nghĩa về sử liệu, có thể thấy, về cơ bản những định
nghĩa này có nội hàm giống nhau tuy nhiên cách diễn đạt lại khác nhau. Có thể
dẫn ra một vài ví dụ tiêu biểu như:
Theo
E. Bernheim trong “Phương pháp luận sử học, 1889”: “Sử liệu là những hết quả hành động của con người, nhưng kết quả này
hoặc từ ý đồ có trước, hoặc từ bản thân sự tồn tại của nó, đặc biệt có ích cho
nhận thức và kiểm tra sự kiện lịch sử”.
Theo
Langlois. Ch và Seingnobos. Ch trong “Nhập môn nghiên cứu lịch sử, 1897”: “Sử liệu là những dấu vết do tư tưởng và hành
động của con người từ quá khứ để lại”. Theo định nghĩa của Langlois và
Seingnobos thì sử liệu chỉ là những kết quả của hành động con người đã diễn ra
không quan tâm đến hình thức thời gian của nó, vì đây chỉ là những kết quả do
hoạt động của con người sinh ra nên ít nhiều mang tính bị động, nguồn sử liệu
này có thể ta đã nhận thức được cũng có thể ta chưa nhận thức được (bao gồm
nguồn sử liệu hiệu quả và nguồn sử liệu tiềm năng).
J. Topolski trong “Phương pháp luận sử học, bản dịch năm 1967” đã đưa ra định
nghĩa mang tính khái quát hơn: “Sử liệu
là tất cả những gì mà từ đó khai thác được thông tin từ quá khứ”.
Còn
GS. Hà Văn Tấn đưa ra định nghĩa trên cơ sở những định nghĩa trên: “Sử liệu là toàn bộ những thông tin về quá
khứ và những gì mà các thông tin đó truyền đạt”.
Có thể
thấy, dù được diễn đạt bằng cách này hay cách khác thì sử liệu luôn là cơ sở để
các nhà sử học nắm bắt được quá khứ. Bản thân sử liệu là một sự kiện hay là
“một mảnh” của sự kiện. Nhưng mặt khác, sử liệu chứa đựng những thông tin lịch
sử được nhà sử học khai thác. Sử liệu là cầu nối duy nhất giữa nhà sử học và
quá khứ. Dù các nhà sử học có cố gắng đến mấy thì sự kiện sử học chỉ tiêm cận
với sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ. Tùy theo năng lực, chỗ đứng, và
cách tiếp cận khác nhau mà mỗi nhà sử học lại lại đưa ra những nhận thức khác
nhau.
Trong
quá trình nghiên cứu các nhà sử học đã phân loại sử liệu ra thành nhiều loại
khác nhau và theo những cách khác nhau. Có ba cách phân chia sử liệu tương đối
phổ biến đó là: Sử liệu thành văn và sử liệu không thành văn; sử liệu trực tiếp
và sử liệu gián tiếp; sử liệu truyền miệng, thành văn và vật thực. Mỗi loại sử
liệu có vai trò khác nhau và không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu lịch
sử.
Nhưng
nổi bật trong số đó phải kể đến nguồn sử liệu thành văn, hay còn gọi là nguồn
sử liệu chữ viết. Tuy không phải là nguồn sử liệu xuất hiện đầu tiên nhưng đây
được xem là nguồn sử liệu được sử dụng phổ biến và hiệu quả nhất. Bên cạnh
những tác phẩm lịch sử được biên chép hết sức công phu, các nhá sử học còn khai
thác thông tin từ những nguồn sử liệu chữ viết khác. Hồi ký là một trong số đó,
đây là loại hình ghi chép không mới tuy nhiên đặc biệt trong những năm gần đây
xuất hiện khá nhiều những cuốn hồi ký thu hút sự quan tâm trong giới nghiên cứu
lịch sử cũng như trong dư luận. Vậy câu hỏi đặt ra là, hồi ký có được xem là
một nguồn sử liệu trong nghiên cứu lịch sử hay không? Và nếu có thì giá trị của
hồi ký trong nghiên cứu lịch sử là như thế nào?
2. Hồi ký – với tư cách là một nguồn sử
liệu
Muốn
tìm hiểu vai trò của hồi ký trong nghiên cứu lịch sử trước hết ta phải hiểu được
thế nào là một tác phẩm hồi ký. Có thể hiểu một cách đơn giản nhất: Hồi ký là
những tác phẩm hồi cố của một nhân vật về chính cuộc đời của mình, tác phẩm hồi
ký có thể do chính nhân chính trong hồi ký là tác giả, cũng có thể là người
khác nghe kể và biên chép lại. Có thể thấy rằng: hồi ký là những ghi chép được
lựa chọn, luôn luôn biên tập lại sự miêu tả về cuộc sống, hầu như lúc nào cũng
mang mục đích luận cao trong cấu trúc (trong đó chúng được viết để diễn giải
kết quả một cuộc đời chứ không phải để ghi lại quá trình đó). Vì vậy, nhìn
chung, tài liệu cá nhân ghi chép lại quan điểm của người viết về sự kiện, có lẽ
thậm chí cả kí ức của họ về việc họ đã trải qua ra sao, và chúng thường cho ta
biết nhiều về mục đích chính trị, sách lược tư tưởng của tác giả, cũng như văn
hóa thời kì tác giả sinh sống. Hồi ký không phải là một ghi chép đơn thuần mà
vấn đề nổi lên chính là mục đích của tác giả trong cuốn hồi ký đó. Vì vậy, hồi
ký được xếp vào nhóm tài liệu có “chủ đích”. Song, để khẳng định một tài liệu
là “ngẫu nhiên” hay có “chủ đích” lại không hề dơn giản. Có thể, hồi ký được viết ra với những ý
đồ có trước nên tính “mục đích” của loại tài liệu này là khá rõ ràng. Tuy
nhiên, trong khi viết để bảo vệ, biện minh cho một mục đích nào đó của mình thì
hồi ký cũng cung cấp cho chúng ta những thông tin quý giá mà bản thân tác giả
cũng không ý thức được. Rõ ràng, xét trên một góc độ nào đó thì hồi ký cũng
được xem là một nguồn sử liệu và có những giá trị nhất định trong nghiên cứu
lịch sử.
Những
thông tin hồi ký thường cung cấp cho nhà sử học là:
Hồi ký
giúp cho các nhà sử học có được cái nhìn đa chiều với một sự kiện lịch sử. Có
thể lấy một ví dụ như: dựa vào hồi ký của những vị tướng, binh lính đã từng
tham gia một trận đánh có thể giúp những nhà sử học tiếp cận với sự kiện lịch
sử và nhìn nhận nó dưới một góc độ khác (có khi chỉ là mang tính cá nhân), ít
nhiều cuốn hồi ký cũng gợi nên không gian và tính chất của người viết và cảm
xúc của tác giả. Mỗi người lại có sự miêu tả và cảm xúc không giống nhau về một
sự kiện, chính vì thế mà cung cấp cho nhà sử học những khám phá mới trong so
sánh và đối chiếu những sự kiện này. Có thể trong một cuộc chiến cái nhìn của
vị tướng cầm quân hoàn toàn khác với một anh lính trực tiếp tham gia vào trận
đánh. Hiện nay khi nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam,
một nguồn sử liệu đước các nhà sử học hết sức lưu ý đó chính là hồi ký của
những vị tướng, những cựu quân nhân (cả Pháp và Mỹ) trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Thông qua đó giúp ta có cái
nhìn sấu sắc hơn về chiến tranh Việt Nam, về sự thảm khốc của cuộc
chiến, về tâm trạng thực sự của những người “bên kia chiến tuyến”.
Một
hồi ký có thể cung cấp những thông tin cho nhà nghiên cứu mà chính tác giả
không ý thức được. Thông qua một số tác phẩm hồi ký mà các nhà sử học có thể
xác định được niên đại của một số tác phẩm, năm sinh năm mất của một số nhân
vật. Tuy không phải là mục đích của tác giả hướng tới, nhưng trong quá trình
viết tác giả có nhắc tới một số sự kiện, nhân vật, tác phẩm nào đó, vô tình
những chi tiết này lại cung cấp cho người nghiên cứu những tư liệu hết sức quý
giá.
Dù là một nguồn sử liệu trong nghiên cứu,
nhưng hồi ký có những hạn chế mang tính đặc trưng của loại hình tài liệu này:
Xét ở
góc độ nào thì tính nổi bật của hồi ký là tính cá nhân, chủ quan và được định
hướng theo mục đích của người viết. Không giống như nhật kí được viết ra dành
cho riêng mình và không hề có ý định cho người khác đọc, thì hồi ký được viết
ra với mục đích công bố rộng rãi. Nhật kí được ghi chép theo hàng ngày, vì vậy
sự kiện được ghi chép khá chính xác và thái độ của người viết bộc lộ là khá
trung thực (vì chỉ viết cho riêng mình họ hoàn toàn không có lý do gì để phải
che đậy suy nghĩ và cảm xúc thật của mình). Còn hồi ký được viết lại bởi sự hồi
cố của tác giả về những sự kiện đã qua, vị thế và bản thân tác giả giữa thời
điểm viết và thời điểm diễn ra sự kiện trong quá khứ đã khác xa nhau, chính vì
vậy sự nhìn nhận của tác giả về sự kiện đó ít nhiều đã bị thay đổi chứ không
còn nguyên bản chất. Mặt khác, mục đích của hồi ký là viết ra hướng đến đông
đảo người đọc nên cảm xúc thực sự của tác giả đôi khi bị che giấu đi thay vào
đó là thái độ dễ tìm kiếm được sự đồng tình của người đọc. Khi viết hồi ký tác
giả có thể không diễn tả lại chính xác những sự kiện diễn ra trong thời điểm đó
vì có thể những sự kiện có sự tham gia của tác giả và thành công thì được ghi
chép hết sức tỉ mỉ nhưng một số sự kiện tác giả không tham gia hay không giành
được thắng lợi thì không hề được nhắc tới. Do vậy, khó mà có thể hình dung được
bức tranh mà cuốn hồi ký dựng lên đã đầy đủ và chân thực hay không, mà nếu
khiếm khuyết thì khiếm khuyết phần nào. Và vai trò thực sự của người viết trong
sự kiện lịch sử đã diễn ra là như thế nào.
Một
trong những hạn chế nữa trong khi nghiên cứu dựa vào hồi ký gặp phải là do được ghi chép lại hoàn toàn do nhân tố
khách quan, thời gian diễn ra sự kiện đã quá lâu nên có những sự kiện tác giả
không nhớ được hoặc không nhớ chính xác được. Đây là một hiện tượng khá phổ
biến trong các tác phẩm hồi ký. Chính vì vậy trong khi nghiên cứu, sử dụng
những thông tin từ hồi ký phải trải qua công tác phê phán sử liệu.
Sử
liệu chính là phương tiện mà thông qua đó nhà sử học có thể nhận thức được
những gì đã xảy ra trong quá khứ. Với mỗi loại tài liệu lại yêu nhầu những nhà
nghiên cứu phải có những cách làm việc khác nhau để khai thác được thông tin sao
cho có hiệu quả nhất. Hồi ký là nguồn sử liệu mà nếu biết cách khai thác thì ta
cũng thu được nhữn thông tin hết sức thú vị. Và dù là mang đậm tính cá nhân và
chủ quan nhưng hồi ký cũng giúp cho ta có thể nhìn nhận về quá khứ đã qua một
cách sinh động và nhiều cảm xúc. Dù có những đóng góp nhất định trong nghiên
cứu lịch sử nhưng cũng không thể phủ nhận được những hạn chế của loại hình sử
liệu này.
Thạc sỹ Nguyễn Thị Ánh Tuyết - Giảng viên khoa Xây dựng Đảng