Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Học
thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự
trong toàn bộ khoa học kinh tế, trang bị cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về
chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng, phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở nước
ta, việc nghiên cứu, khai thác để vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác
trở thành việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc
vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác trước hết phải nhận thức đúng khái
niệm bóc lột và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết Mác. “Bóc lột” là một
bộ phận người trong xã hội hoặc tập đoàn xã hội nào đó, chiếm đoạt không có bồi
thường thành quả lao động của một người khác hoặc của một tập đoàn khác. Nhưng
việc “chiếm hữu không có bồi thường” thành quả lao động của người khác hoặc tập
đoàn xã hội, không chỉ dựa vào sở hữu tư liệu sản xuất hoặc tư bản tiền tệ mà
cũng có thể thông qua bạo lực, quyền lực, chinh phục bằng vũ lực. Theo Mác, việc
bóc lột lao động đều có trong tất cả các hình thái xã hội từ trước tới nay vận
động trong những mâu thuẫn giai cấp. Nhưng chỉ khi nào kẻ sở hữu tư liệu sản xuất
tìm ra được người công nhân tự do, với tư cách là đối tượng bóc lột, và bóc lột
người công nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hoá để thu được giá trị tăng
thêm, chỉ khi đó mới là bóc lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất mới mang
tính chất đặc biệt là tư bản. Vậy câu hỏi đặt ra trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giá trị thặng dư còn tồn tại?
Học
thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lịch sử nền
sản xuất hàng hoá hàng hóa tư bản chủ nghĩa.Cho nên, chính Mác chứ không phải
ai khác là một trong những người nghiên cứu sâu sắc về nền kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa hay gọi là kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, với nhiều thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, không
thể phủ nhận chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân thông qua hoạt động sản xuất kinh
doanh hợp pháp đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao mức
sống của người lao động. Tuy nhiên, xét một cách biện chứng thì thu nhập của chủ
doanh nghiệp tư bản tư nhân là lợi nhuận (tức giá trị thặng dư) nên vẫn tồn tại
bóc lột giá trị thặng dư. Cũng cần khẳng định chiếm đoạt giá trị thặng dư là đối
lập với xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng nhưng chừng nào nó vẫn còn
có tác dụng chúng ta vẫn phải tạo điều kiện cho nó tồn tại và làm cho nó gia
tăng. Và như vậy, việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư trong phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là cần thiết, tập
trung khai thác, vận dụng những vấn đề sau:
Một là, khai thác những di sản lý luận C. Mác về phương pháp sản xuất
ra giá trị thặng dư trong nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền
kinh tế hàng hóa, thông qua thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản
xuất và sức lao động, mới bán được hàng hóa và bóc lột được giá trị thặng dư do
người lao động tạo ra. Trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản, dưới sự tác động
của các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật giá trị thặng dư, nhà tư bản thực
hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là thực hiện kéo dài ngày
lao động, tăng cường độ lao động nhưng phương pháp này vấp phải những phản
kháng của người lao động nên các nhà tư bản thực hiện phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tương đối bằng cách ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ
vào sản xuất để tăng năng suất lao động xã hội, bên cạnh đó các nhà tư bản còn tích
cực cải tiến tổ chức sản sức, tiết kiệm chi phí sản xuất, tìm hiểu nhu cầu của
thị trường. Các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý sản xuất
kinh doanh được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho nền kinh tế năng
động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, các thành phần kinh tế cần phải vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư mà các nhà tư bản đã vận dụng để
phát triển sản xuất đặc biệt là chú trọng vận dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối để năng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết
hợp với phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người lao động.
Những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực mạnh mẽ trong
việc cải thiện năng suất lao động (NSLĐ), nhờ đó đã có những cải thiện đáng kể,
cả về giá trị và tốc độ. Theo Báo cáo của Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) năm
2020 đã cho thấy: năng suất lao động của Việt Nam được cải thiện rõ nét, bình
quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%) và
vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình
quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%). Cũng theo Báo cáo 2020
của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với
Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm. Điều này cho thấy
Việt Nam cần phải có nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng suất
quốc gia.
Hai
là, khai thác những luận điểm của Mác về
những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư
bản để góp phần vào việc quản lý thành phần kinh tế tư nhân( đặc biệt là kinh
tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế ở nước ta sao cho vừa khuyến khích phát
triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Điều này cần có chính sách thúc đẩy thành phần
kinh tế này để qua đó thu hút được nhiều lao động xã hội, sử dụng nhiều trình
độ lao động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Trong thực tế,
sau hơn 30 năm kể từ khi Luật đầu tư được ban hành năm 1987, đây là văn bản
pháp quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, tạo điều
kiện mời gọi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hơn 30 năm
qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang trở thành một phần
không thể thiếu của nền kinh tế, đóng góp không nhỏ sự phát triển kinh tế- xã hội
ở Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau hơn 30 năm đón vốn
FDI, từ năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả
nước thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc gia và vùng lãnh thổ còn hiệu lực, với
tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD. Vốn FDI đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống
phân ngành kinh tế quốc dân. Đầu tư nước ngoài hiện là nguồn vốn bổ sung quan
trọng chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư cả nước, đóng góp khoảng 20% GDP. Năm
2017, khu vực FDI đóng góp khoảng 8 tỷ USD, chiếm 14,4% tông thu ngân sách. 10
đối tác đứng đầu có số vốn đăng ký khoảng 82%, trong đó phải kể đến Hàn Quốc,
Nhật Bản, Singapor và Đài Loan (Trung Quốc).
Nhưng để đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhà nước cần phải quản lý doanh nghiệp này để nhằm hạn chế việc bóc lột
người lao động quá mức như kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian quy
định của luật lao động mà không có sự
thống nhất của người lao động, việc cắt xén tiền công, cắt xén các chế độ của
người lao động như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm tai nạn lao động. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho chúng ta
thấy rằng chúng ta thừa nhận bóc lột này không thể như trong chế độ tư bản chủ
nghĩa được mà người lao động cần phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật
của Việt Nam. Thực tế, nhà nước ta đã có hệ thống luật pháp bảo vệ người lao
động như: Luật lao động, Luật bảo hiểm, quy định về tiền lương tối thiểu cho
khu vực doanh nghiệp nhưng vẫn chưa đầy đủ. Tuy nhiên, yếu kém nhất hiện nay
trong bảo vệ người lao động là thiếu sự kiểm soát chặt chẽ và xử lý vi phạm
nghiêm minh của các cơ quan chức năng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Nhiều cuộc đình công, bãi công của công nhân nước ta ở các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ khá cao trong các cuộc đình công đặc biệt
là năm 2011 đạt kỷ lục với 857 cuộc đình công. Hiện nay, tuy đã giảm nhưng vẫn
còn diễn ra các cuộc đình công mà nguyên nhân dẫn đến có liên quan đến các vấn
đề về bảo hiểm xã hội, tiền lương, chế độ ngày nghỉ, chất lượng bữa ăn ca. Nếu
khắc phục được những yếu kém này, chúng ta sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển
đồng thời đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Ba
là, nghiên cứu học thuyết giá
trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản để có cơ chế, chính sách phân phối giá trị
thặng dư đảm bảo công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
C.Mác
đã khẳng định giá trị thặng dư không phải do tư bản (tiền) được đầu tư vào sản
xuất sinh ra, hoặc do máy móc tạo ra. Giá trị thặng dư là do lao động thặng dư
của người lao động tạo ra. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, người lao động không chỉ bao gồm người công nhân trực
tiếp đứng máy, mà còn có những người lao động khác như lao động của những người
chủ doanh nghiệp, lao động của bộ phận quản lý sản xuất kinh doanh… Nếu người
chủ doanh nghiệp cũng là người trực tiếp quản lý thì lao động của họ cũng tạo
ra giá trị thặng dư. Lao động quản lý gọi là lao động phức tạp. Như vậy, chủ
doanh nghiệp được hưởng một phần giá trị thặng dư từ hoạt động sản xuất và kinh
doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn chính đáng.
Vấn đề đặt ra làm sao lượng hóa chính xác số lượng lao động thặng dư của
từng bộ phận, từng người lao động để thực hiện phân phối giá trị thặng dư một
cách công bằng trong các doanh nghiệp hiện nay.
Doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều có hai hình thức phân phối: Theo
tiền lương, tiền công và phân phối theo phúc lợi. Vấn đề là lượng hóa một cách
chính xác số lượng, chất lượng lao động. Số lượng thì đơn giản, nhưng về chất
lượng thì khó hơn. Mặc dù, lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn,
nhưng bội số là bao nhiêu thì rất khó. Vậy cần phải dựa vào hai yếu tố: Một là
dựa trên sự thỏa thuận hợp đồng của người thuê lao động và người lao động, mối
quan hệ này được điều chỉnh theo quy luật của thị trường, quy định mặt bằng
chung về giá cả sức lao động, về cạnh tranh của doanh nghiệp để thu hút lao
động bằng tiền lương, tiền thưởng. Hai là, sự điều chỉnh của Nhà nước bằng
chính sách tiền lương và luật lao động. Nhà nước quy định lương tối thiểu và
điều kiện làm việc, về bảo hiểm…của người lao động tại các doanh nghiệp.
Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên
cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự
thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê
phán phương thức sản xuất TBCN tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của
CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ
đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn nghiên cứu, khai thác học thuyết
giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc nhằm
vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
-------
Thạc sỹ. Đinh Thị Thúy Hà - Giảng viên khoa lý luận cơ sở
Tài
liệu tham khảo
1.C.Mác-Ph.Ănghen, Toàn tập, tập 23, tr 873.
2.Những nhận thức về kinh tế chính trị
trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam, NXb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1998, tr5,
8, 34
3. Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm
2020. NXB Thống kê. Tr 9,45.
Ths. Đinh Thị Thúy Hà