Suốt cuộc đời mình, mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là vấn đề đoàn kết nhằm tập hợp lực lượng, phát huy đến mức cao nhất
sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế, vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng trên đã được thể hiện rõ nét qua bản Di chúc của Người.
Hơn 50 năm trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những dòng cuối cùng của
bản Di chúc lịch sử, mỗi chúng ta cùng suy ngẫm về tư tưởng đoàn kết trong di sản
mà Người để lại cho dân tộc Việt Nam hôm nay.
Tư tưởng cốt lõi trong
Di Chúc của Bác, đó chính là tư tưởng đoàn kết, là sự kết tinh tư tưởng đoàn
kết của Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, tư tưởng đó thể hiện ở
ba nội dung lớn đó là: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế.
Thứ nhất, về đoàn kết
trong Đảng
Trong Di chúc, Hồ Chí
Minh đề cập rất nhiều đến vấn đề từ đấu tranh giành độc lập đến phác thảo cương
lĩnh xây dựng đất nước ngay sau khi chiến tranh kết thúc, từ đối nội đến đối
ngoại, từ việc chung đến việc riêng. Điều quan trọng nhất, sâu sắc nhất trước
lúc đi xa đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh là nói về đoàn kết trong Đảng. Tính lô
gic, tính cách mạng và khoa học trong cách viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngay sau cụm từ “trước hết nói về Đảng”,
Người đề cập trực tiếp đến vấn đề đoàn kết trong Đảng. Phải chăng từ trong tâm
khảm của mình, Hồ Chí Minh đòi hỏi những người cộng sản Việt Nam phải luôn nhớ
rằng sự nghiệp cách mạng muốn thành công trước hết cần có Đảng lãnh đạo và Đảng
phải kết thành một khối thống nhất. Là người có tầm nhìn chiến lược, xuyên suốt
lịch sử, có những dự đoán thiên tài nên từ tháng 9/1960 Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh thì chậm nhất là 15
năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc - Nam nhất định sẽ sum họp một
nhà”. Tiếp tục tư duy ấy, trong Di chúc Người còn viết: “Cuộc kháng chiến
chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa”. Vì vậy, có thể nói phần quan trọng
nhất trong Di chúc của Người là phác thảo cương lĩnh xây dựng đất nước sau
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Theo Hồ Chí Minh, thắng đế
quốc, phong kiến đã khó, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó khăn hơn. Tính nhất
quán ấy của tư duy Hồ Chí Minh được tiếp tục nhấn mạnh trong Di chúc: chống lại
những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ, tốt tươi là cực kỳ to lớn,
phức tạp, khó khăn. Chính trong điều kiện mới, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải
mạnh hơn bao giờ hết, Đảng chỉ mạnh hơn khi sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
được tăng cường, vì vậy trong Di chúc Bác viết: “Các đồng chí từ Trung ương
đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”. Sự nhấn mạnh này là khái quát nhất cho thấy Chủ tịch Hồ Chí
Minh ý thức sâu sắc hơn ai hết tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng khối
đoàn kết trong Đảng.
Thứ hai, về đoàn kết toàn dân
Kế thừa
những giá trị truyền thống dân tộc, cùng với việc nhấn mạnh đoàn kết trong Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Người
chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta, vì vậy trách nhiệm của mỗi đảng viên, mỗi
người dân cần phải gìn giữ, phát huy truyền thống đó”. Muốn làm được điều
đó, với tư cách là một Đảng cầm quyền trong điều kiện mới, Đảng ta phải có những
chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện thực tiễn và phải đáp ứng nhu cầu
nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đó là
cách tốt nhất để tập hợp lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong bản
Di chúc, Người đã chỉ ra các chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước phải thực hiện
đối với các tầng lớp nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới: Với thế hệ trẻ, cần
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế
xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa hồng vừa chuyên; với người nông dân, cần có chính
sách miễn thuế nông nghiệp một năm; với phụ nữ, cần phải có kế hoạch thiết thực
để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công
việc kể cả công việc lãnh đạo; với thương binh, thân nhân gia đình thương binh
liệt sỹ, phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, thông qua những chính sách đó, sẽ quy tụ được sức mạnh toàn dân tộc,
không bỏ sót bất kỳ ai miễn là những người Việt Nam yêu nước, không có sự phân
biệt đối xử. Đồng thời còn thể hiện tư tưởng nhân ái, độ lượng, bao dung mang đậm
phong cách Hồ Chí Minh.
Làm tốt
được những việc nêu trên, Đảng ta sẽ hiện thực được điều mong muốn cuối cùng của
Người: “…là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Thứ ba,
về đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế là một yếu tố có giá trị lớn
trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn bó với Người trong gần 60 năm hoạt
động cách mạng, hơn 30 năm bôn ba hoạt
động ở nước ngoài. Thực tế cho thấy, với uy
tín, nhiệt tình cách mạng và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, ngay từ những năm
1920, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan trọng vào sự đoàn kết, thống nhất
giữa các lực lượng cách mạng trên thế giới. Người luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận, có
quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới và Người chủ trương thực hiện
đoàn kết sâu sắc triệt để trên nguyên tắc bình đẳng dân tộc và hợp tác cùng
có lợi. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Cách mạng Việt Nam luôn luôn được sự đồng tình và ủng hộ của giai
cấp công nhân và nhân dân cách mạng thế giới, nhất là của nhân dân các nước
xã hội chủ nghĩa anh em. Tình đoàn kết quốc tế vĩ đại ấy là một điều kiện rất
quan trọng cho cách mạng Việt Nam thắng lợi”. Người cũng nhấn mạnh: “Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân
dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của
nhân dân thế giới”.
Và trong Di chúc, quan điểm về đoàn kết quốc tế
một lần nữa lại được biểu hiện rõ ràng hơn và đầy đủ hơn. Trong Di chúc, Hồ Chí
Minh quả quyết khẳng định về thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi ấy không thể tách rời sự đoàn kết, giúp đỡ
tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa và bầu bạn khắp năm châu. Với Người, nhân dân Việt Nam và các lực lượng
tiến bộ trên thế giới đã kết thành một khối gắn bó không tách rời; thành quả
của cách mạng là tổng hợp sức mạnh nội lực và sức mạnh của tình đoàn kết,
tương trợ quốc tế. Vì vậy, một trong những dự kiến đầu tiên của
Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau khi chiến tranh kết thúc là thay mặt nhân dân ta,
Người sẽ đi thăm, cảm ơn và mở rộng hơn nữa khối đoàn kết quốc tế với Việt Nam.
Đây chính là biểu hiện của truyền thống
đoàn kết, thủy chung, trọng tình trọng nghĩa của dân tộc Việt Nam, mà Người là
hiện thân cao đẹp nhất.
Hơn năm
mươi năm đã đi qua, những tư tưởng quan điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vẫn được Đảng, nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đón nhận, suy ngẫm và vận dụng.
Trong tình hình mới, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lại
càng quan trọng nhằm huy động và phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cùng với niềm tin
về một tương lai tốt đẹp, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải xây dựng và phát
huy cao hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết, trước hết là đoàn kết trong
Đảng như Di chúc của Bác.
-----
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, trang 279.
2. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995,trang
238.
3. Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng, Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1980, trang 210,211.
4. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Tập 14 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 467
5. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, trang
675
Thạc sỹ. Lê Mai Phương - Giảng viên khoa xây dựng