Chi bộ khoa xây dựng Đảng học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
1. Đại đoàn kết là chiến lược của cách mạng
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết
toàn dân tộc đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân
tộc ta. Tiếp tục phát huy truyền thống quý báu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Không đoàn kết thì suy và mất. Có
đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ
gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”[1]. Vì thế, 8
chữ “Đoàn
kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” là mục đích của Đảng và Đảng
thực hiện đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc.
Khát vọng dân tộc được độc lập, tự do và thống nhất, nhân dân được
sống ấm no, hạnh phúc là mẫu số chung, là điểm gốc để quy tụ tất cả mọi người
dân Việt Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc. Vì thế, xây dựng khối đoàn kết dân
tộc trong một mặt trận thống nhất chính là để tập hợp và lãnh đạo quần chúng
nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết đó, Đảng là một thành viên
của Mặt trận, đồng thời là lực lượng lãnh đạo, vì vậy Đảng không chỉ xây dựng
và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc mà còn phải biến nguồn sức mạnh được tổ
chức thành một khối vững chắc và hoạt động theo đường lối chính trị đúng đắn đó
thành lực lượng vật chất, sức mạnh vật chất. Theo Người, “trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta
là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây.
Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết với các tầng lớp nhân dân lao
động khác”[2]
Trong Mặt trận, việc đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân, các
đảng phái, các dân tộc anh em, giữa đồng bào lương với đồng bào các tôn giáo
khác được thực hiện theo phương châm “cầu đồng tồn dị” tức là tìm đến cái chung
nhưng vẫn giữ được cái riêng, cái khác biệt, để cùng nhau sống hoà thuận, ấm
no, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đó, để phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp
trí thức Việt Nam vào hàng ngũ cách mạng, bổ sung và phát huy vai trò của họ,
làm cho họ trở thành một động lực cách mạng quan trọng; đồng thời khẳng định
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Thực tế cho thấy, liên minh công -
nông - trí (trí thức) không những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền
tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là yêu cầu
khách quan để phát triển bền vững kinh tế, vǎn hoá, xã hội của đất nước. Tuỳ
theo yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt
trận có cương lĩnh, điều lệ phù hợp, được tổ chức chặt chẽ, xây dựng trên nền
tảng khối liên minh công - nông - trí đã luôn lấy việc thống nhất lợi ích tối
cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và
không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Khối đại đoàn kết dân tộc chỉ thực sự phát huy được sức mạnh nội
sinh khi gắn liền với đoàn kết quốc tế, nghĩa là chủ nghĩa yêu nước chân chính
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, sức mạnh
dân tộc phải gắn với sức mạnh thời đại. Thực tiễn cách mạng cho thấy, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh đoàn
kết 3 nước Đông Dương (Việt Nam - Lào - Campuchia), của các nước xã hội chủ
nghĩa và phong trào nhân dân thế giới ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt
Nam trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội
90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng là những minh chứng sống động cho việc xây
dựng và thực hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Một số nội
dung, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc hiện nay
2.1. Nhận thức
đúng đắn vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Nhận
thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế,
cũng như quan điểm của Đảng ta về đoàn kết trong tình hình mới. Nhận thức đúng về nội
dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc
tế. Quán triệt và vận dụng, phát triển
tư tưởng của Người phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, phải thấu suốt quan điểm
đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo
đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đại đoàn kết là sự nghiệp của cả
dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng ta, được thực
hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu.
Quán
triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về đoàn kết trong tình hình mới. Vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể nước ta, Đại hội XII chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế,
chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải
quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển,
tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng giáo dục
- đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng
các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực
hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các
cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”[3]. Xây dựng khối đại
đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
là đường lối chiến lược nhất quán, cơ bản và lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Với
tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, đường lối chiến lược tăng cường phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đang trở thành nhiệm vụ thường xuyên,
quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đồng
thời, khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc
phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên
trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;...”[4].
Đó là kết quả tư duy chính trị sáng tạo của Đảng ta, nhằm phát huy hơn nữa bài
học về sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, đòi hỏi toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta, phải thường xuyên nêu cao cảnh giác cách mạng, kiên định với
mục tiêu chiến lược, không ngừng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc,
coi đó là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Chú trọng bảo đảm công bằng và bình
đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp,
các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân - tập thể - toàn xã
hội; thực hiện dân chủ gắn với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập
dân tộc, thống nhất tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem
đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc.
Không những phát huy tinh
thần đoàn kết dân tộc, phát huy nội lực dân tộc mà còn phải mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực quốc tế để phát triển đất nước.Trong điều kiện
thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết
với phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại
giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện
nay của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất
cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
2.2.
Nắm vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu trong tăng cường, mở rộng khối đại đoàn
kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
Trên
cơ sở nắm vững nguyên tắc về đại đoàn kết, tích cực, chủ động khơi dậy và phát
huy những yếu tố tương đồng; sự phù hợp về lợi ích trước mắt và lâu dài trong cộng
đồng dân tộc cũng như quốc tế. Đảng ta khẳng định: “... lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm
điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của
quốc gia - dân tộc”[5]. Đồng thời,
trong củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết, đồng thời phải khéo xử lý các mối
quan hệ giữa bộ phận với toàn cục, dân tộc với giai cấp, quốc gia với quốc tế
trong tình hình mới, nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo
thế và lực cho cách mạng nước ta tiếp tục vững bước trên con đường phát triển đất
nước theo định hướng XHCN.
Phát huy nội lực trên cơ
sở coi trọng việc phát huy vai trò dân chủ đi đôi với củng cố và hoàn thiện
pháp luật, xây dựng bầu không khí cởi mở, tin cậy, tạo nên sự đồng thuận trong
toàn xã hội. Tích cực, chủ động mở rộng
quan hệ quốc tế theo hướng “thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng
hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế”[6].
Song tăng cường và mở rộng
quan hệ quốc tế phải trên cơ sở “giữ vững
độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc;
chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc
tế”[7].
Việc giải quyết các vấn đề trong quan hệ quốc tế, phải trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc và được thực
hiện trên cơ sở “thấu tình, đạt lý”.
Phân biệt rõ đối tượng, đối
tác trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Cần phải nắm hiểu một
cách sâu sắc rằng: “trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc
tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền
thống với yếu tố hiện đại”[8]. Mặt khác, củng cố và mở rộng
khối đại đoàn kết hiện nay phải được gắn liền với cuộc đấu tranh chống mọi
khuynh hướng sai lầm lệch lạc, cô độc hẹp hòi, tự ty dân tộc hoặc đoàn kết vô
nguyên tắc, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng làm suy yếu khối đại đoàn kết.
2.3.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế
Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết. Khẳng định điều này, Đảng ta nêu rõ: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở
vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[9], đồng thời là điều
kiện quan trọng hàng đầu trong xây dựng, củng cố đoàn kết quốc tế.
Đảng phải
nắm vững
và vận dụng
sáng tạo các nguyên tắc cơ bản
và phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Quán triệt nguyên tắc và phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh, chúng ta cần tiếp
tục đổi mới cả về nội dung và phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần
chúng một cách khoa học; nhạy bén, linh hoạt đề ra các chính sách đúng đắn
trong giải quyết các mối quan hệ trong nước và quốc tế; kết hợp chặt chẽ giữa đối
ngoại của Đảng, Nhà nước với ngoại giao nhân dân; chủ động tìm tòi, lựa chọn nội
dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp để đưa các quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước thấm sâu vào tư tưởng,
tình cảm của các tầng lớp nhân dân. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực
sự nêu một tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết, tận tụy vì nước, vì dân; lời
nói phải đi đôi với việc làm thì mới bảo đảm tính thuyết phục, cảm hóa lòng người.
Đảng vừa phải xác định
rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng cụ thể, vừa phải chú trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân; tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đảng và Nhà nước phải hết sức quan tâm, chăm lo đến việc
củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy cao nhất vai trò của
Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Đảng phải chủ động xây dựng
hệ thống chính sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích thiết thực của
các tầng lớp nhân dân, khích lệ được tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
hướng mọi hoạt động của các tổ chức, lực lượng, đoàn thể vào thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
3.
Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc ở Chi bộ khoa
Xây dựng Đảng, Trường Chính trị tỉnh Thái Bình
Trong những năm qua, chi bộ khoa Xây dựng Đảng luôn
quán triệt tư tưởng đoàn kết, coi đoàn kết thống nhất là một nguyên
tắc quan trọng trong xây dựng chi bộ, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng
và hành động. Chi bộ thường xuyên nắm bắt, giải quyết kịp thời những tâm tư
nguyện vọng của cán bộ, đảng viên; chăm lo xây dựng khối đoàn kết nhất trí, nêu
cao tinh thần cộng sự trong công tác, tinh thần trách nhiệm với công việc của
giảng viên trong khoa. Đồng thời, đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc
về tư tưởng, biểu hiện mất dân chủ, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, suy
thoái về đạo đức lối sống và các tiêu cực khác. Công tác tư tưởng trong sinh hoạt
chi bộ được coi trọng, qua đó nâng cao tinh thần đoàn kết của đảng viên trong
chi bộ. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong tình hình mới, theo
tôi cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, cấp ủy, lãnh đạo khoa cần tiếp
tục nâng cao nhận thức, quán triệt tư tưởng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị
số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề năm 2020 về “Tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đại
đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân
lãnh đạo là Đảng Cộng sản, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức;
trong đó, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có
ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đó là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cấp ủy, chi bộ khoa
và đội ngũ giảng viên phải đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền để tạo sự đồng
thuận, hiệp lực trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Hai
là, nâng
cao hiệu quả tuyên truyền thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đội ngũ cán bộ và giảng
viên của khoa thông qua giảng dạy cần làm tốt việc tuyên truyền chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết, khuyến
khích, động viên phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân gắn với thực hiện tốt trách nhiệm của công dân, phát
huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW ngày 2-2-2018 của Ban Bí thư về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,
lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”, góp phần
xây dựng Chi bộ khoa trong sạch, vững mạnh.
Ba
là, nâng cao vai trò hạt nhân đoàn kết của cấp
ủy và chi bộ khoa, cùng với vai trò đội ngũ của đảng viên trong khoa. Để nâng
cao vai trò đoàn kết của chi bộ khoa,
trong sinh hoạt chi bộ thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình, mỗi đảng
viên trong quá trình thực hiện nguyên tắc này phải quán triệt tinh thần của
nguyên tắc đó là đảm bảo tính giáo dục, tính khách quan, trung thực và kịp thời.
Từ đó tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn nảy
sinh trong quá trình công tác, tạo ra sự đồng thuận về tư tưởng. Trong sinh hoạt
chi bộ, đảng viên được cung cấp đầy đủ các thông tin, được thảo luận, bàn bạc
và phát biểu ý kiến một cách công khai, dân chủ các vấn đề liên quan đến công
việc chuyên môn, công việc của cơ quan, đoàn thể, phát huy trí tuệ tập thể, qua
đó nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tạo nên sự đồng thuận và phối hợp công
tác giữa các đồng nghiệp trong Khoa.
Bốn
là, tổ chức động viên cán bộ, đảng viên, giảng viên trong khoa tích
cực, chủ động tham gia và thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước. Thông qua các phong trào thi đua sẽ phát huy được các nguồn lực
của mỗi cá nhân và tập thể, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất và đồng thuận,
hướng tới thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Năm
là, chi bộ thường xuyên nắm bắt, giải quyết kịp thời để phản ánh những tâm
tư, nguyện vọng của giảng viên trong khoa về những lợi ích thiết thực, chính
đáng, hợp pháp theo quy định của Đảng, Nhà nước, trong tỉnh và Nhà trường. Chăm
lo xây dựng khối đoàn kết nhất trí, nêu cao tinh thần cộng sự trong công tác,
tinh thần trách nhiệm với công việc, phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của lãnh
đạo khoa, bảo đảm công bằng và bình đẳng theo chức trách nhiệm vụ được giao; kết
hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thể và toàn xã hội. Cùng với việc
giải quyết đúng đắn và hợp lý các quan hệ lợi ích, cần đẩy mạnh và không ngừng
bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, tinh thần tự lực
tự cường trong công việc chuyên môn, góp phần xây dựng chi bộ khoa về mọi mặt;
củng cố và phát triển khối đại đoàn kết trong toàn khoa, coi đó là những yếu tố
quan trọng để không chỉ phòng và chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch mà còn góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”./.
--------------------
Tài liệu tham khảo.
[1] Trích thư gửi đồng bào ngày 14/10/1945
[2] Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập
9, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN 2011, trang 90.
[3] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.158.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.235, 236.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.158.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.153.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.236.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr.66.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.160.
Thạc sỹ. Lê Mai Phương - Giảng viên khoa xây dựng