THỐNG KÊ LƯỢT TRUY CẬP:
Trong ngày: 179
Trong tháng: 58383
Tổng: 1322806
 
Bài viết chuyên đề
Thắng lợi và bài học lịch sử của chiến dịch biên giới 1950

Ngày cập nhật: 12/10/2021

   

71 năm trước đây, trên miền biên giới Đông Bắc đất nước, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân Việt Nam mở chiến dịch tiến công quy mô lớn vào hệ thống phòng ngự quân đội Pháp (khu vực Đường số 4). Chiến dịch giành thắng lợi vang dội, mở ra bước ngoặt mới theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. 
Đến giữa năm 1950, cuộc kháng của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược có sự phát triển toàn diện. Tuy nhiên, cách mạng còn gặp nhiều khó khăn. Thực dân Pháp, được đế quốc Mỹ hậu thuẫn xây dựng “tuyến hành lang cơ bản” (Hải Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La) hòng cắt liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc của ta với đồng bằng Liên khu III, Liên khu IV; đồng thời tăng cường hệ thống phòng ngự tại các tỉnh biên giới phía Bắc nhằm “khóa chặt biên giới Việt - Trung”, cô lập cách mạng Việt Nam với thế giới bên ngoài. 
Bối cảnh quốc tế lúc này có sự chuyển biến quan trọng. Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa ra đời (01/10/1949) tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng nước ta có thể quan hệ trực tiếp với các nước xã hội chủ nghĩa, tiếp nhận viện trợ quốc tế. Từ tháng 01 năm 1950, các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ kháng chiến của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 
Trong tình thế đó, để tạo bước “đột phá” xoay chuyển cục diện chiến tranh, tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng, Chính phủ chủ trương mở chiến dịch quy mô lớn ở vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nhằm mục đích: “Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; giải phóng một phần biên giới, mở đường thông thương với các nước xã hội chủ nghĩa; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc”(1). Tuy nhiên, việc lựa chọn hướng chính chiến dịch (Đông Bắc hay Tây Bắc) chưa thống nhất. 
Tháng 7 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng tiếp tục họp bàn, quyết định chọn hướng tiến công chính ở Đông Bắc (trọng điểm là Cao Bằng - Lạng Sơn), vì đây là địa bàn hiểm yếu; địa hình rừng núi phù hợp với sở trường tác chiến bộ đội ta; việc huy động nhân lực, vật lực có nhiều thuận lợi. 
Để bảo đảm giành thắng lợi, Trung ương Đảng huy động phần lớn các đơn vị chủ lực cơ động chiến lược của Bộ, bao gồm Đại đoàn 308, Trung đoàn 209, Trung đoàn 174 và bốn đại đội sơn pháo, năm đại đội công binh; phối hợp cùng lực lượng vũ trang của Liên khu Việt Bắc và hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. 
Ngày 25 tháng 7 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy Chiến dịch Biên giới (mật danh Lê Hồng Phong II). Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quyết định trực tiếp đi mặt trận, chỉ đạo, động viên cán bộ, chiến sĩ, đồng bào. Ngoài ra, chiến dịch còn được sự giúp đỡ tích cực về vũ khí, lương thực từ chính phủ Trung Quốc, đặc biệt là có Đoàn cố vấn Trung Quốc bên cạnh Sở chỉ huy. 
Chiến dịch Biên giới năm 1950 là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của quân đội ta, mang ý nghĩa chiến lược rất to lớn. Sự thành - bại trong chiến dịch này có ảnh hưởng quyết định đến việc thay đổi cục diện chiến tranh, đến lòng tin của quân và dân đối với đường lối kháng chiến của Đảng, đến quá trình xây dựng, trưởng thành của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị: “Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!”. Thường vụ Trung ương Đảng cũng nhấn mạnh lại quyết tâm: “Phải thực hiện cho bằng được những nhiệm vụ chiến dịch đã nêu ra ở trên”(2). 
Chấp hành chủ trương, chỉ đạo chiến lược đề ra, quân dân ta khẩn trương chuẩn bị mọi mặt. Riêng lực lượng hậu cần lên đến ba vạn người, cộng thêm 12 vạn dân công thuộc các dân tộc Việt Bắc ngày đêm hoạt động phục vụ tiền tuyến. Khối lượng vật chất vận chuyển từ xa đến mặt trận khoảng 4.000 tấn. Bên cạnh đó, Trung ương Đảng cũng giao nhiệm vụ cho các chiến trường đẩy mạnh hoạt động tại chỗ để phối hợp kiềm chế địch, không cho chúng dồn quân tăng viện cho mặt trận biên giới. 
Lúc này, lực lượng quân Pháp trên tuyến phòng thủ biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn có 11 tiểu đoàn và 9 đại đội bộ binh (phần lớn là lính Âu - Phi tinh nhuệ) được trang bị vũ khí hiện đại, tổ chức thành những cụm cứ điểm mạnh dọc theo Đường số 4: Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Lộc Bình... cách nhau trung bình từ 25 đến 30km. Trong trường hợp một cụm cứ điểm bị tiến công, địch có thể chi viện trực tiếp bằng đường không, hoặc tổ chức lực lượng ứng cứu đường bộ từ những cụm cứ điểm gần nhất. 
Sau thời gian tích cực chuẩn bị, sáng ngày 16 tháng 9 năm 1950, ta tiến công cụm cứ điểm Đông Khê, mở màn chiến dịch. Đến sáng ngày 18 tháng 9, ta tiêu diệt toàn bộ quân phòng ngự, đẩy quân Pháp vào tình thế hoang mang: Thất Khê bị uy hiếp, Thị xã Cao Bằng bị cô lập; thế phòng thủ Đường số 4 bị lung lay. 
Bị mất Đông Khê, Bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương quyết định rút quân khỏi Cao Bằng theo Đường số 4 với kế hoạch “hành quân kép”: Tổ chức một cuộc hành quân đánh lên Thái Nguyên nhằm buộc ta đưa chủ lực về đối phó, giảm áp lực cho quân Pháp ở biên giới; đồng thời tổ chức một cuộc hành quân từ Thất Khê tiến lên chiếm lại Đông Khê, để đón cánh quân từ Cao Bằng rút về. 
Nhận định đúng ý định của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo các đơn vị kiên trì mai phục chờ đánh quân tiếp viện. Đúng như dự đoán, ngày 30 tháng 9 năm 1950, quân Pháp bắt đầu triển khai kế hoạch hành quân. Chớp thời cơ, từ ngày 01 đến ngày 8 tháng 10 năm 1950, quân ta liên tục chặn đánh tiêu diệt từng cánh quân địch tại khu vực ngoại vi Đông Khê, làm phá sản hoàn toàn kế hoạch rút quân của chúng. Bộ chỉ huy quân Pháp hoảng loạn, ra lệnh rút quân khỏi hàng loạt cứ điểm trên Đường số 4: Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập. 
Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, hoàn thành xuất sắc mục tiêu cơ bản đề ra. Trải qua 29 ngày đêm chiến đấu (16/9 - 14/10/1950), ta diệt và bắt hơn 8.000 quân tinh nhuệ địch, thu 3.000 tấn vũ khí, mở thông dải biên giới Đông Bắc kéo dài từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), trực tiếp góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh: ta bước sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, Pháp chuyển dần sang chiến lược phòng ngự. Đây thực sự “là kết tinh thành quả những nỗ lực phi thường của quân và dân ta trong những năm tháng chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ trong vòng vây bốn bề của địch, dưới sự lãnh đạo hết sức tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta”(3). Thắng lợi của chiến dịch Biên giới tháng 10 năm 1950 đã làm cho cách mạng nước ta chuyển hẳn từ thế bị động, phòng ngự sang thế chủ động, tiến công; đẩy thực dân Pháp vào thế bị động và mở ra thời kỳ khủng hoảng và thất bại liên tiếp của thực dân Pháp ở chiến trường Đông Dương. 
Thắng lợi chiến dịch lịch sử này đã để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học lịch sử quý báu: 
Một là, cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi, thì trước tiên phải có đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, nhất là tại thời điểm có ý nghĩa quyết định “xoay bản lề” cho cục diện chiến tranh. 
Hai là, biết phát huy cao độ sức mạnh tinh thần yêu nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong hoàn cảnh bị bao vây cô lập, gặp vô vàn khó khăn như vậy, mà ta có thể huy động lực lượng dân công lên đến 12 vạn người phục vụ bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi. Đây rõ ràng là một thành công rất lớn, vượt ra ngoài dự đoán của phía thực dân Pháp. 
Ba là, phải xây dựng những binh đoàn chủ lực mạnh làm nòng cốt cho kháng chiến. Và thực tế, ngay sau chiến thắng Biên giới 1950, ta thành lập thêm các 5 đại đoàn chủ lực mạnh (312, 316, 320, 325, 351), trên cơ sở đó, chủ động mở thêm nhiều chiến dịch lớn, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 giành thắng lợi quyết định. 
Bốn là, trên tinh thần độc lập, tự chủ, cần tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp cao hơn địch.  
Những bài học lịch sử ấy được Trung ương Đảng tiếp tục chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong các chặng đường lãnh đạo cách mạng giai đoạn sau, nhất là những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975).
 --------------
ThS. Phạm Đức Nghĩa - Giảng viên khoa Xây dựng Đảng

Tài liệu tham khảo

(1) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tổng kết tác chiến chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.99. 
(2) Chiến dịch tiến công Biên giới 1950, Viện Khoa học quân sự - Bộ Quốc phòng, xuất bản năm 1976, tr.10. (3) Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.168.

 
Bản quyền thuộc Trường Chính trị tỉnh Thái Bình
Địa chỉ: Số 332, đường Lý Thường Kiệt, phường Trần Lãm, Thành Phố Thái Bình
Chịu trách nhiệm chính: Ông Nguyễn Đức Luận
Chức vụ: Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Thái Bình
Điện thoại: 02273.738.190
Giấy phép xuất bản số 26/GP-TTĐT của Sở Thông Tin và Truyền Thông ngày 23 tháng 5 năm 2017